Các điều khoản Công_ước_châu_Âu_về_Nhân_quyền

Được tu chính bởi nghị định thư 11, Công ước gồm 3 phần. Các quyền và quyền tự do chính được nêu trong Mục I, trong đó bao gồm các điều từ 2 tới 18. Mục II (Điều 19-51) thiết lập Tòa án Nhân quyền châu Âu và các quy tắc hoạt động của nó. Phần III có quy định kết thúc khác nhau.

Trước khi Nghị định thư 11 có hiệu lực, Mục II (Điều 19) lập ra Ủy ban Nhân quyền châu ÂuTòa án Nhân quyền châu Âu. Các mục III (Các điều 20 tới 37) và mục IV (Các điều 38 tới 59) bao gồm bộ máy cấp cao cho hoạt động của Uỷ ban Nhân quyền và Toà án. Còn Mục V có các quy định khác kết thúc khác nhau.

Rất nhiều điều khoản trong mục I được cấu trúc thành hai đoạn: đoạn đầu đưa ra một quyền cơ bản hoặc quyền tự do (chẳng hạn như Điều 2 (1) - quyền được sống), nhưng đoạn hai gồm các loại trừ, trường hợp ngoại lệ khác nhau hoặc các hạn chế về quyền cơ bản (chẳng hạn Điều 2 (2) – trong đó loại trừ một số việc sử dụng sức mạnh dẫn đến cái chết).

Điều 1 – tôn trọng các quyền

Điều 1 chỉ đơn giản buộc các bên ký kết phải bảo đảm các quyền quy định trong các điều khoản khác của Công ước trong "thẩm quyền pháp lý" của mình. Trong những trường hợp đặc biệt, thẩm quyền pháp lý có thể không chỉ giới hạn ở một lãnh thổ quốc gia của riêng nước ký kết, mà bổn phận phải bảo đảm các quyền ghi trong Công ước cũng mở rộng ra lãnh thổ nước ngoài, chẳng hạn như đất đai chiếm đóng, trong đó Nhà nước thi hành việc kiểm soát cách hiệu quả.

Điều 2 - cuộc sống

Điều 2 bảo vệ quyền sống của mọi người. Đoạn đầu của điều khoản 2 có một ngoại lệ cho các việc xử tử hợp pháp; trong khi đoạn sau của điều khoản này quy định rằng cái chết gây ra do tự bảo vệ hay bảo vệ người khác, do việc bắt giữ một kẻ tình nghi hoặc kẻ trốn tránh, hoặc đàn áp các cuộc bạo loạn hay nổi loạn – thì không vi phạm điều khoản này, khi sử dụng vũ lực "không vượt quá mức tuyệt đối cần thiết".

Quyền này cũng không vi phạm Điều 15 của Công ước trong thời bình. Việc miễn trừ đối với các vụ xử tử hợp pháp tiếp tục bị hạn chế bởi các Nghị định thư 6 và 13 (xem bên dưới), đối với các bên cũng ký kết các Nghị định thư này.

Tòa án Nhân quyền châu Âu đã chưa hề phán quyết về quyền sống cho đến năm 1995, khi trong vụ McCann kiện Vương quốc Anh [7]. Tòa đã phán quyết rằng trường hợp ngoại lệ ghi trong đoạn thứ hai của Điều 2 không bao gồm các tình huống được phép giết người, nhưng là các tình huống trong đó được phép sử dụng vũ lực có thể dẫn đến việc tước đoạt sự sống..[8]

Tòa án Nhân quyền đã phán quyết là các nước ký kết Công ước có 3 bổn phận chính theo điều 2:

  1. bổn phận kìm lại việc giết người bất hợp pháp,
  2. bổn phận điều tra những cái chết đáng nghi và,
  3. trong một số trường hợp, có bổn phận tích cực phòng chống việc thiệt hại sinh mạng có thể dự đoán được.[9]

Điều 3 – Tra tấn

Điều 3 cấm tra tấn, và "trừng phạt hoặc đối xử vô nhân đạo hoặc làm mất phẩm giá". Không có các ngoại lệ và hạn chế về quyền này. Quy định này thường được áp dụng - ngoài việc tra tấn – cho các trường hợp bạo lực nghiêm trọng của cảnh sát và các điều kiện tồi tệ ở nơi giam giữ.

Tòa án Nhân quyền đã nhấn mạnh tính chất cơ bản của Điều 3 khi cho rằng việc cấm đoán được quy định bằng "các lời lẽ tuyệt đối... bất kể hạnh kiểm của nạn nhân"."[10]. Tòa án cũng cho rằng các quốc gia không thể trục xuất hoặc dẫn độ các cá nhân có thể là đối tượng bị tra tấn, trừng phạt hoặc đối xử vô nhân đạo hay làm mất phẩm giá ở nước nhận họ.[11].

Ban đầu Tòa án đã có quan niệm hạn chế về thế nào là tra tấn, thường coi rằng các nước đã áp đặt việc đối xử vô nhân đạo, làm mất phẩm giá. Do đó, tòa án cho rằng các cách thức như không cho nạn nhân ngủ, bắt phải nghe tiếng ồn cường độ cao và bắt họ phải đứng sát vào một bức tường tay chân dang ra trong thời gian dài, không phải là tra tấn.[12] Trên thực tế, tòa án chỉ xét thấy một nước đã phạm tội tra tấn năm 1996 trong vụ một người tù bị treo 2 cánh tay lên trong khi 2 cổ tay bị trói quặt sau lưng.[13]. Từ đó Tòa án đã tỏ ra rộng rãi hơn trong việc coi các nước là phạm tội tra tấn và thậm chí còn phán quyết rằng vì Công ước này là một "công cụ sống", nên việc đối xử mà trước đó đã mô tả như là vô nhân đạo hoặc làm mất phẩm giá thì trong tương lai có thể bị coi là tra tấn.[14]

Điều 4 - Nô lệ

Điều 4 cấm chiếm hữu nô lệ, bắt lệ thuộc và lao động cưỡng bách, nhưng ngoại trừ việc lao động:

  • được làm như một phần bình thường của án phạt tù,
  • ở dạng nghĩa vụ quân sự bắt buộc hay việc làm như là một thay thế bởi do những người chống đối nghĩa vụ quân sự vì lương tâm
  • đòi phải làm trong tình trạng khẩn cấp, và
  • được coi như một phần "nghĩa vụ dân sự" bình thường của một người

Điều 5 - Tự do và an toàn

Điều 5 quy định rằng mọi người đều có quyền tự do và an toàn cá nhân. Tự do và an toàn cá nhân được coi như một "ý niệm kép" – Tòa án đã giải thích rằng: tự do và an toàn cá nhân không thể tách biệt nhau.

Điều 5 đưa ra quyền tự do, đối tượng chỉ bị bắt giữ hay giam cầm hợp pháp trong một số hoàn cảnh nhất định khác, chẳng hạn như bắt giữ vì nghi ngờ phạm tội hay giam cầm để thi hành một bản án. Điều khoản này cũng đưa ra quyền được thông báo bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về những lý do của việc bắt giữ và mọi cáo buộc chống lại họ; quyền nhanh chóng tiếp cận các thủ tục tư pháp để xác định tính hợp pháp của vụ bắt giữ hoặc giam cầm và xét xử trong một thời gian hợp lý hoặc thả ra trong khi chờ xét xử; cùng quyền được bồi thường trong trường hợp việc bắt giữ hoặc giam cầm là vi phạm điều khoản này.

Điều 6 – Xét xử công bằng

Điều 6 đưa ra quyền được xét xử công bằng cách chi tiết, trong đó có quyền được xét xử công khai trước một tòa án độc lập và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền được coi là vô tội khi chưa có phán quyết của tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với những người bị cáo buộc một tội hình sự (đủ thời gian và các điều kiện để chuẩn bị việc biện hộ bảo vệ họ, tiếp cận với đại diện pháp luật, quyền thẩm vấn các nhân chứng chống lại họ, quyền được có thông dịch viên miễn phí).

Đa số các vi phạm Công ước mà nay Tòa án Nhân quyền tìm thấy là sự chậm trễ xét xử quá mức, vi phạm các yêu cầu về "thời gian hợp lý", trong thủ tục tố tụng dân sự và hình sự trước các tòa án quốc gia, phần lớn ở ÝPháp. Theo đòi hỏi một "tòa án độc lập", Tòa án Nhân quyền châu Âu đã phán quyết rằng các thẩm phán quân sự tại tòa án an ninh quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ không phù hợp với Điều 6. Để phù hợp với Điều khoản này, ngày nay Thổ Nhĩ Kỳ đã thông qua một đạo luật bãi bỏ các tòa án này.

Các vi phạm đáng kể khác liên quan đến "điều khoản đối chất" của Điều 6 (tức là quyền thẩm vấn các nhân chứng hoặc để họ đối chất). Về mặt này, các vấn đề về sự phù hợp với Điều 6 có thể phát sinh khi luật pháp quốc gia cho phép sử dụng trong các bằng chứng về các lời khai của nhân chứng vắng mặt, nhân chứng vô danh và dễ bị lung lạc.

Điều 7 - hiệu lực hồi tố

Cấm chuyển thành án hình sự có hiệu lực hồi tố các hành động và những việc bỏ sót. Không ai có thể bị phạt về một hành động không bị coi là tội hình sự vào thời điểm vi phạm. Điều khoản này nói rõ rằng một tội hình sự là tội mà luật quốc gia hoặc luật quốc tế, cho phép một bên ký kết truy tố người nào về một tội không phải là bất hợp pháp theo luật quốc gia sở tại vào thời điểm đó, miễn là công pháp quốc tế có cấm. Điều khoản này cũng cấm áp đặt hình phạt quá nặng hơn hình phạt được áp dụng vào thời điểm phạm tội.

Điều 7 đưa nguyên tắc pháp lý Nullum crimen, nulla poena sine praevia lege poenali vào trong Công ước.

Điều 8 - sự riêng tư

Điều 8 quy định mọi người có quyền được tôn trọng "cuộc sống riêng tư, gia đình, nhà cửa và "sự riêng tư của thư" của mình, tùy theo một số hạn chế "phù hợp với pháp luật"và "cần thiết trong một xã hội dân chủ". Điều khoản này rõ ràng đưa ra một quyền không bị khám xét bất hợp pháp, nhưng Tòa án đã đưa ra việc bảo vệ "cuộc sống riêng tư và gia đình", mà điều khoản này đưa ra việc giải thích rộng rãi, chẳng hạn như việc cấm các hành vi đồng tính luyến ái riêng tư có ưng thuận là vi phạm điều khoản này. Điều này có thể được so sánh với lý thuyết luật học của Tòa án tối cao Hoa Kỳ, nơi cũng đã chấp thuận một giải thích hơi rộng về quyền riêng tư. Hơn nữa, điều 8 đôi khi cũng bao gồm các bổn phận tích cực: trong khi mà nhân quyền cổ điển được diễn đạt như việc cấm một nhà nước không được can thiệp vào các quyền, và do đó không làm điều gì (ví dụ, không chia cách gia đình dưới sự bảo vệ cuộc sống gia đình), việc được hưởng thực sự các quyền như vậy cũng có thể bao hàm việc nhà nước phải tích cực, và làm việc gì đó (ví dụ buộc (ai) phải cho người cha ly dị được quyền gặp con mình.

Điều 9 – lương tâm và tôn giáo

Điều 9 quy định quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâmtự do tôn giáo. Điều này bao gồm việc tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, và để biểu lộ một tôn giáo hay tín ngưỡng thờ phượng, giảng dạy, thực hành và chấp hành, tùy theo một số hạn chế "phù hợp với pháp luật" và "cần thiết trong một xã hội dân chủ"

Điều 10 – ngôn luận

Điều 10 quy định quyền tự do ngôn luận, tùy theo một số hạn chế "phù hợp với luật pháp" và "cần thiết trong một xã hội dân chủ". Quyền này bao gồm sự tự do giữ ý kiến, và để nhận cùng truyền đạt thông tin và ý tưởng.

Điều 11 - lập hội

Điều 11 bảo vệ quyền tự do lập hội lập hội họp, trong đó dó quyền lập công đoàn, tùy theo một số hạn chế "phù hợp với pháp luật" và "cần thiết trong một xã hội dân chủ".

Điều 12 - kết hôn

Điều 12 quy định quyền cho các phụ nữ và người nam ở tuổi có thể kết hôn được kết hôn và lập gia đình.

Mặc dù có nhiều lời mời, cho đến nay Tòa án Nhân quyền đã khước từ việc áp dụng sự bảo vệ của điều khoản này cho hôn nhân đồng giới. Tòa án đã bảo vệ việc khước từ này với lý do là điều khoản này nhằm chỉ áp dụng cho các cuộc hôn nhân khác giới tính, và rằng một giới hạn rộng của sự nhận xét phải được đưa ra cho các bên trong lãnh vực này..

Trong vụ Goodwin kiện Vương quốc Anh Tòa án đã phán quyết rằng một luật, trong đó vẫn xếp các người sau khi phẫu thuật chuyển đổi giới tính vào loại giới tính cũ trước khi phẫu thuật, thì vi phạm điều 12, vì nó cho rằng các người đã chuyển đổi giới tính không thể kết hôn với những cá nhân thuộc giới tính đối lập sau khi phẫu thuật. Phán quyết này ngược với phán quyết trước đây trong vụ Rees kiện Vuong Quốc Anh. Tuy nhiên, nó cũng không thay đổi quan niệm của Tòa án là điều 12 chỉ bảo vệ các cặp vợ chồng khác giới tính.

Điều 13 - biện pháp sửa chữa hữu hiệu

Điều 13 đưa ra quyền có biện pháp sửa chữa hữu hiệu trước các giới chức chính quyền quốc gia về những vi phạm các quyền theo Công ước này. Việc không có khả năng đạt được biện pháp sửa chữa trước một tòa án quốc gia về việc vi phạm một quyền theo Công ước như vậy là một sự vi phạm Công ước riêng rẽ, có thể kiện.

Điều 14 – phân biệt đối xử

Điều 14 gồm việc cấm phân biệt đối xử. Việc cấm này là rộng rãi trong một số cách, và thu hẹp trong những cách khác. Nó rộng ở chỗ nó cấm phân biệt đối xử theo một số lượng tiềm tàng không giới hạn các nguyên nhân. Trong khi điều khoản này đặc biệt nghiêm cấm phân biệt đối xử dựa trên "giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc ý kiến khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, gắn với một thiểu số quốc gia, nơi sinh, hay thân phận khác", mục cuối cùng trong số này (tức thân phận khác) cho phép các tòa án mở rộng việc bảo vệ của điều 14 sang các nguyên nhân khác không nêu cụ thể như đã được thực hiện liên quan đến phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục của một người.

Đồng thời việc bảo vệ của điều khoản này được giới hạn, trong đó chỉ cấm phân biệt đối xử đối với các quyền theo Công ước. Do đó, người nộp đơn phải thử kiện việc phân biệt đối xử trong một quyền cụ thể được đảm bảo ở điều khoản khác trong Công ước (ví dụ như phân biệt đối xử dựa trên giới tính - Điều 14 - hay quyền tự do phát biểu - Điều 10).

Nghị định thư 12 mở rộng lệnh cấm này để bao gồm cả phân biệt đối xử trong bất cứ quyền hợp pháp nào, ngay cả khi có quyền hợp pháp đó không được bảo vệ theo Công ước, miễn là nó được quy định trong luật pháp quốc gia.

Điều 15 - miễn thi hành

Điều 15 cho phép các quốc gia ký kết Công ước miễn thi hành một số quyền được đảm bảo bởi Công ước trong thời gian "chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp công cộng khác đe dọa cuộc sống của dân tộc". Các miễn trừ được phép theo Điều 15 phải đáp ứng ba điều kiện quan trọng:

  1. phải là tình trạng khẩn cấp công cộng đe dọa cuộc sống dân tộc
  2. mọi biện pháp để đáp ứng (tình hình) phải do "đòi hỏi nghiêm ngặt của các nhu cầu cấp bách của tình hình", và
  3. những biện pháp để đáp ứng với tình hình, phải phù hợp với một nghĩa vụ khác của quốc gia theo luật quốc tế

Ngoài các đòi hỏi quan trọng trên đây, việc miễn thi hành một số quyền phải hợp thủ tục. Phải có một số thông báo chính thức về việc miễn thi hành và thời hạn miễn thi hành, mọi biện pháp (đáp ứng tình hình) được chấp thuận, và khi chấm dứt việc miễn thi hành (nói trên) phải được thông báo cho Tổng thư ký của Ủy hội châu Âu.[15]

Tòa án Nhân quyền hoàn toàn dễ dãi trong chấp nhận việc miễn thi hành Công ước của một nước, nhưng áp dụng việc xem xét ở mức cao khi quyết định xem biện pháp mà một nước sử dụng trong việc miễn thi hành Công ước – theo điều 15 – có đúng là do "đòi hỏi nghiêm ngặt của các nhu cầu cấp bách của tình hình" hay không. Vì vậy, trong vụ A kiện Vương quốc Anh, Tòa án bác bỏ một luận cứ cho rằng vụ miễn thi hành Công ước do chính phủ Anh ấn định để đáp lại sự kiện 11 tháng 9 là không hợp lệ, nhưng đã xem xét tiếp và thấy là các biện pháp do Vương quốc Anh áp dụng trong vụ miễn thi hành Công ước này là không cân xứng.[16]

Để cho việc miễn thi hành Công ước tự nó là hợp lệ, thì tình trạng khẩn cấp dẫn tới việc miễn trừ này phải là:

  • có thật hoặc sắp xảy ra, mặc dù các nhà nước không phải chờ tai họa xảy ra trước khi dùng các biện pháp phòng ngừa,[17]
  • liên quan tới của cả dân tộc, mặc dù điều này không loại trừ các trường hợp khẩn cấp được giới hạn trong các khu vực,[18]
  • đe dọa sự tồn tại cuộc sống có tổ chức của cộng đồng,[19]
  • đặc biệt như các biện pháp và sự hạn chế được Công ước cho phép là "rõ ràng không đủ" để đối phó với tình trạng khẩn cấp.[19]

Điều 16 - ngoại kiều

Điều 16 cho phép các nước hạn chế các hoạt động chính trị của các người nước ngoài. Tòa án đã phán quyết rằng các nước thành viên Liên minh châu Âu không thể coi các công dân của các nước thành viên khác là những ngoại kiều.[20]

Điều 17 - lạm dụng quyền

Điều 17 quy định là không ai được sử dụng các quyền được đảm bảo bởi Công ước này để tìm kiếm việc bãi bỏ hoặc hạn chế các quyền được bảo đảm trong Công ước. Điều này nói về các trường hợp cá biệt mà các nước tìm cách hạn chế một quyền con người nhân danh một quyền con người khác, hoặc nơi mà các cá nhân dựa vào một quyền con người để làm suy yếu một quyền con người khác (ví dụ nơi mà một cá nhân đưa ra sự đe dọa giết người).

Điều 18 – các hạn chế được cho phép

Điều 18 quy định rằng mọi hạn chế các quyền quy định trong Công ước chỉ có thể được sử dụng cho mục đích mà chúng được quy định. Ví dụ, Điều 5, đảm bảo quyền tự do cá nhân, có thể bị hạn chế cách dứt khoát nhằm đưa một kẻ tình nghi ra trước một thẩm phán. Để sử dụng việc tạm giam trước khi xét xử như một phương tiện hăm dọa một người dưới một cớ sai trái, do đó là một hạn chế quyền (tự do) mà không phục vụ một mục đích được quy định rõ ràng (sẽ được đưa ra trước một thẩm phán), và do đó trái với Điều 18.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Công_ước_châu_Âu_về_Nhân_quyền http://assembly.coe.int/Conferences/2009Anniversai... http://assembly.coe.int/Conferences/2009Anniversai... http://assembly.coe.int/Conferences/2009Anniversai... http://assembly.coe.int/Documents/AdoptedText/TA94... http://conventions.coe.int/Treaty/Commun/ChercheSi... http://conventions.coe.int/Treaty/Commun/ChercheSi... http://conventions.coe.int/Treaty/Commun/ChercheSi... http://conventions.coe.int/Treaty/Commun/ChercheSi... http://conventions.coe.int/Treaty/Commun/ChercheSi... http://conventions.coe.int/Treaty/Commun/ListeTrai...